LỜI NGỎ

Chào mừng các bạn đến với Web Blog của tôi. Tôi lập trang Weblog này để nói về cuộc sốngkiến trúc. Hai khái niệm hết sức trừu tượng, bao hàm cả thế giới xung quanh ta. Rất hy vọng các bạn sẽ thưởng thức và tìm thấy những điều lý thú, bổ ích cho mình và mong nhận được những ý kiến đóng góp chân thành của các bạn. Cám ơn rất nhiều!

18 tháng 2, 2009

Titanic không chỉ có tình yêu


     Không hẳn chỉ có tình yêu lãng mạn của chàng Jack ở khoang tàu hạng ba dành cho cô tiểu thư trên khoang hạng nhất.Một Rose đài cát đang rơi vào cuộc hôn nhân sắp đặt để cứu cánh cho gia đình bên bờ vực thẳm.Mang trong trái tim một tình yêu đan xen giữa lề thói phong kiến “chồng chúa vợ tôi”, vị hôn phu của Rose đã kéo theo sau đó một chuỗi cảm xúc hờn ghen,độc đoán,thậm chí cả vũ phu…

     Dù họ có vào vai chính diện hay phản diện ,dù tính cách mỗi nhân vật không ai giống ai nhưng xuyên suốt bộ phim họ đã thể hiện được rất hoàn hảo một thứ,đó là tình yêu!Vâng,và cho dù đây là bộ phim đã đoạt giải,bộ phim đã cũ so với thời điểm hiện tại nhưng cũng không thể không xem lại lần nữa trong ngày Valentine năm nay.

     Nếu lấy chủ đề tình yêu để xem Titanic thì đây là một bộ phim tình cảm tuyệt vời.Những gì đọng lại trong ta không hẳn đã là cảnh chàng Jack cùng Rose dang tay trước mũi tàu trong buổi hoàng hôn,không hẳn đã là những cung bậc cảm xúc được cuốn theo lời dẫn truyện từ một góa phụ(có thể cho là thế theo nhiều nghĩa) được một trong hai mươi chiếc tàu gần đấy quay lại cứu.Người con gái run rẩy trước ranh giới mong manh giữa sự sống và cái chết,cô đã rét run,lập cập không hẳn vì lạnh cóng mà còn là vì trái tim cô hoàn toàn đóng băng khi nhìn Jack tê cóng chìm dần xuống đáy đại dương...

     Điều tôi muốn nói đến đây là những diễn viên phụ,nhưng đoạn phân vai tưởng chừng như không có đất diễn,những giây phút ngắn ngủi,thậm chí chỉ là một câu thoại vẫn để lại điều gì đó đè nặng trong lòng người xem,họ là những diễn viên phụ tuyệt vời!

     Bắt đầu từ cảnh thuyền trưởng phát hiện con tàu sẽ chìm trong vòng một giờ nữa,cảnh hỗn loạn khi thuyền cứu hộ được đưa xuống, ưu tiên dành cho phụ nữ và trẻ em.Trong muôn ngàn sự chia ly vội vã của những gia đình quý tộc khoang hạng nhất, một bà mẹ bế con gái chờ cánh cửa khoang hạng ba mở ra trong vô vọng:

Khi nào mình mới xuống thuyền hả mẹ?
Chờ những người ở khoang hạng nhất xuống hết sẽ đến chúng ta…

Hai mẹ con,hai câu thoại,một hố sâu ngăn cách được lột tả hoàn toàn một cách lạnh lùng tê điếng.

Một quý ông đã từ chối mặc áo phao bằng câu nói:
Chúng tôi nghĩ mình đã ăn mặc chỉnh tề và sẽ ra đi như một quý ông.

     Một đức cha trong cơn hoản loạn vẫn đọc bài thánh kinh cuối cùng,vẫn chạy lên phía cao nhất con tàu với hi vọng kéo dài cuộc sống.Một tay cha vẫn bám lấy nơi chắc chắn,một tay nắm lấy đám con chiên ngoan đạo đang nhắm mắt đón chờ cứu rỗi.Mắt cha xứ vẫn nhắm nghiền …Có phải chăng khi ta ở gần nhất với cái chết thì cho dù ta có là ai,ta sẽ trở về với chính thật con người mình,với bản năng sinh tồn trong mọi hoàn cảnh?!

     Một viên sĩ quan nhận tiền và cho những người đàn ông quý tộc được xuống thuyền cứu hộ,có những người đàn ông nghĩ rằng họ có thể mua sự sống bằng tiền,bằng lòng ích kỷ hèn mạt nhất.Nhìn họ vội vàng lẻn xuống thuyền và lo sợ bị ai đó phát hiện thì chẳng ai nghĩ vừa cách đây vài giờ họ đã ngẩng cao đầu cho đúng tư cách của người trưởng giả .Đồng tiền đã từng khẳng định địa vị của họ và họ cũng đã trơ trẽn hạ thấp nhân cách của mình bằng chính những đồng tiền họ có.Người sĩ quan đã im lặng khi người đàn ông nhét cọc tiền vào túi,người sĩ quan im lặng khi nhìn thấy một quý ông sợ sệt ngồi yên vị trên thuyền,để rồi đến khi con tàu sắp chìm hẳn,trong tâm trạng hỗn loạn,tuyệt vọng,viên sĩ quan đã ném gói tiền ,bắn vào những người đàn ông còn lại đang cố thoát chết bằng mọi cách.Có lẽ việc tốt nhất cuối cùng anh ta có thể làm được là đưa tay cao ngang đầu chào như một người lính rồi tự kết thúc đời mình.

     Dù ta đã từng trót làm điều gì đó hoặc chỉ là gián tiếp sai lầm thì cũng tự điều chỉnh được những điều đó bằng cách giải thoát mình…

     Người sản xuất con tàu Titanic đã chỉnh lại đồng hồ trên tàu cho đúng với thời khắc hiện tại,ông đưa cho Rose chiếc áo phao của mình và chấp nhận cái chết trên chính đứa con mà ông đã đặt hết nhiệt huyết vào đấy.Đứa con tinh thần mà ông đã từng tự hào,tin tưởng rằng sẽ chẳng bao giờ cần dùng đến những chiếc thuyền cứu hộ.Số thuyền không đủ cho một nửa hành khách trên tàu mà lòng kiêu hãnh của ông đã cố tình nhấn chìm họ .

     Viên thuyền trưởng quay trở lại buồng lái khi không thể có câu trả lời cho một thiếu phụ bế đứa bé sơ sinh trên tay:”Tôi sẽ làm gì đây thưa thuyền trưởng?”.Ông im lặng,vô vọng,quayvề nơi dành cho ông và chấp nhận ra đi với con tàu kinh điển nhất trong lịch sử mà ông vừa có,với 26 năm kinh nghiệm vừa phản bội ông trong một giấc mơ tham vọng làm nên lich sử Titanic.

     Những người nhạc công trên tàu,họ xuất hiện mờ nhạt bên các vai chính trong những buổi tiệc tùng ,có thể chẳng ai để ý đến họ ngày từ đầu phim cũng như trong nội dung câu chuyện.Nhóm bốn người họ được lệnh chuyển ra boong để chơi khúc tấu vui nhộn nhất để trấn an hành khách đang bắt đầu hỗn loạn trên tàu.Họ đã chơi khúc nhạc dành cho wedding,và cứ thế,họ chơi hết bài này đến bài khác,cho đến khi ba trong số họ cảm nhận được âm nhạc không thể cứu được họ thoát khỏi cái chết đến gần kề,họ chia tay nhau và dợm bước đi về phía cao ráo nhất còn lại…Người nghệ sĩ duy nhât ở lại nhìn cái chết đang nuốt dần sự sống,rồi điềm nhiên nhắm mắt,đưa cây vĩ cầm lên vai và âm thanh du dương ấy đã đánh thức lòng can đảm vừa tắt của ba người bạn.Họ đã trở lại và cùng chuẩn bị cho sự ra đi bằng chính niềm đam mê âm nhạc của mình.

     Chỉ là những động tác nhỏ,một ánh nhìn tuyệt vọng,một chút cân đo đong đếm giữa sự sống còn,một chút hi vọng kéo dài hơi thở…Tất cả họ đều diễn thật xuất thần dù chỉ là những tình tiết nhẹ nhàng nhưng đầy cảm xúc.

     Titanic đã cũ,lâu rồi không ngồi xem lại xuyên suốt từ đầu như hôm nay.Đây là bộ phim tình cảm đầy tính nhân văn dành cho ngày Valentine,ta có thể thật ấn tượng với Rose và Jack trước mũi con tàu Titanic trong buổi hoàng hôn,thật ấn tượng với chuỗi tình cảm nhẹ nhàng của họ,cũng có thể có đôi chút ghen ghét dành cho vị hôn phu của Rose,nhưng dù anh ta có độc đoán,ích kỷ,xấu xa đến đâu đi nữa thì ta vẫn thấy được bên trong nhưng điều đó là một thứ tình cảm không thể lẫn lộn vào đâu được:đó chính là tình yêu!

     Và ta chợt nhận ra điều gì đó len lỏi thật nhẹ nhàng như một thông điệp được gửi gắm đến người xem rằng:Titanic không chỉ có tình yêu…

(Như Phương)


17 tháng 2, 2009

Tadao Ando - Kiến trúc sư Nhật nổi tiếng thế giới đến Việt Nam

     Kiến trúc sư Nhật Bản nổi tiếng thế giới, Tadao Ando - thần tượng của nhiều kiến trúc sư và sinh viên kiến trúc Việt Nam đã có mặt tại Hà Nội tối ngày 25/11/2008. Điều ngạc nhiên là ông chưa qua một trường lớp đào tạo về kiến trúc nào.
     Tadao Ando (tiếng Nhật: 安藤忠雄; sinh 13 tháng 9, 1941 ở Osaka, Nhật Bản) là một kiến trúc sư người Nhật. Ông là một người theo chủ nghĩa Phê bình khu vực. Ando chưa hề qua một trường lớp đào tạo về kiến trúc nào. Thời trẻ, ông đã một mình thực hiện một chuyến đi từ Đông sang Tây để tự quan sát và học hỏi. Ông đã từng là tài xế, một võ sĩ quyền Anh trước khi là một kiến trúc sư. Năm 1969, ông thành lập hãng kiến trúc Tadao Ando và cộng sự.
     Tối ngày 25/11/2008, tại Trung tâm hội nghị Quốc gia (Mỹ Đình - Hà Nội) không còn một chỗ trống. Các kiến trúc sư trẻ và hàng nghìn sinh viên ngành kiến trúc - xây dựng đã tranh thủ học hỏi các kinh nghiệm và nắm bắt các trào lưu mới trong kiến trúc hiện đại qua cuộc chuyện trò với Tadao Ando.

     Bên lề buổi giao lưu, Tadao Ando cũng đã có cuộc trao đổi với báo giới Việt Nam:

Được biết, ông là người chưa qua một trường lớp đào tạo về kiến trúc nào mà vẫn trở thành kiến trúc sư nổi tiếng thế giới. Vậy ý tưởng đến với nghề kiến trúc của ông được hình thành từ khi nào?

     Tôi còn nhớ năm 1956, khi ấy tôi 15 tuổi, một lần thấy những người thợ đến sửa nhà cho gia đình mình, tôi cảm thấy rất thích thú. Vì thế tôi đã quyết định tìm hiểu sâu về lĩnh vực kiến trúc. Nhưng khác với những người có ý định theo ngành kiến trúc là thông thường sẽ vào các trường kiến trúc chuyên nghiệp thì tôi lại đọc các sách liên quan đến kiến trúc và thường xuyên đi tìm hiểu các kiểu công trình kiến trúc khác nhau. Từ đó tôi tự rút kinh nghiệm cho riêng mình. 

Ai là người có ảnh hưởng lớn tới sự nghiệp của ông?

     Bà tôi luôn khuyến khích tôi phát triển nghề nghiệp một cách tự do. Năm 17 tuổi tôi chơi boxing. Và điều tôi học được từ môn thể thao này là, khi cần thì phải chiến đấu không ngừng để đạt được mục tiêu của mình. Tôi thấy điều này rất tương đồng với tính cách người Việt Nam, luôn nỗ lực không ngừng để thực hiện được mục tiêu của mình. Ai cũng có cơ hội, mọi cơ hội đều nằm trong tim, trong nỗ lực của chúng ta, đó là mục đích chuyến thăm lần này của tôi tại Hà Nội. 

Ông là một kiến trúc sư theo chủ nghĩa phê bình khu vực, chắc hẳn ông phải đi nhiều nước để tìm hiểu kiến trúc ở các nơi? 

     Từ năm 1962 đến năm 1969, tôi một mình thực hiện chuyến đi đến Mỹ, Châu Âu và Châu Phi để tự quan sát và học hỏi. Đây cũng là khoảng thời gian tôi hình thành và hoàn thiện các ý tưởng về tư duy thiết kế trước khi tôi thành lập hãng kiến trúc Tadao Ando và cộng sự năm 1969 tại Osaka. 
     Hiện nay, tôi không chỉ làm việc tại Nhật Bản mà còn ở Mỹ và Mexico, các nước châu Âu (Đức, Pháp) và các nước châu Á (Trung Quốc, Đài Loan...) 

Công trình kiến trúc đầu tiên nào mà tên tuổi của ông gắn với nó và mang lại sự chú ý của quốc tế?

     Đó là tiểu khu phố Rokko Housing I ở Kobe hoàn thành năm 1983. Tổ hợp này nằm trên sườn dốc tới hơn 600 của núi Rokko. Cả dự án là một khối nhà bê tông và kính trắng tương phản hoàn toàn với vách núi đầy cây xanh phía sau. Toàn bộ 20 căn nhà có kích thước 5,4 x 4,8m, mỗi căn đều có ban công nhìn thẳng ra cảng Kobe. Theo tôi, kiến trúc thú vị khi nó có hai đặc tính, rất đơn giản và đồng thời rất phức tạp. 

 Bảo tàng trẻ em Himeji (tỉnh Hyogo, Nhật Bản) là một trong công trình kiến trúc của Tadao Ando.


Theo ông, sự thú vị trong kiến trúc đó mà ông nói có áp dụng được với Thủ đô Hà Nội của chúng tôi không? Ông có gợi ý gì về kiến trúc của thủ đô Hà Nội trong tương lai?

     Để có thể phát triển đô thị, cần phải có một quan điểm triết học, tư tưởng, định hướng rõ ràng. Nhật Bản có dân số già còn dân số Việt Nam thì rất trẻ. Năng lực tiềm ẩn của Việt Nam còn rất nhiều. Những người lãnh đạo cần phải có định hướng cho phát triển đô thị với quan điểm rằng, đô thị mà mình đang lãnh đạo sẽ có diện mạo như thế nào và có sự cân đối như thế nào giữa các phương diện khác nhau.

Ông nổi tiếng với một công trình có thiết kế giống nhà ống tại Việt Nam, ông có ý tưởng gì cho kiểu nhà ống Việt Nam trong điều kiện khí hậu hiện nay?

    Tôi nghĩ bất kỳ ngôi nhà nào trong đô thị cũng phải chú trọng đến yếu tố thiên nhiên và yếu tố cá nhân. Công trình do tôi thiết kế được đánh giá cao vì yếu tố thiên nhiên trong ngôi nhà được chú trọng nhưng lại khá cân đối với các yếu tố khác.
     Khi thiết kế, nhà thiết kế cũng lồng ý tưởng của mình và tìm một ngôn ngữ biểu hiện nào đó để đạt được. Tuy nhiên vẫn cần phải cân bằng giữa yếu tố xã hội và yếu tố tự nhiên nữa. Kiến trúc phải kết hợp yếu tố an toàn, an tâm, thoải mái và hấp dẫn.

Xin cảm ơn ông!

(Lan Hương)

Phong cách kiến trúc của Tadao Ando luôn ấn tượng bởi:
- Cách sử dụng vật liệu, những mảng tường lớn của ông luôn tạo nên những giới hạn rõ rệt cho ngôi nhà. 
- Tính hiện hữu của các công trình, những khối tường nặng, thô ráp của ông gây cảm giác luôn có thể chạm tới, căng mình để đón ánh sáng và gió.
- Sự thông thoáng trong các công trình luôn cho chỉ có ánh sáng bao bọc những người sử dụng.

11 tháng 2, 2009

Tết Nam Bộ xưa: Ba cuộc gặp lớn



Với người miền Nam xưa, mong sang Năm mới giàu có như các phú hộ Sĩ, Phương, Xường, Định hay như công tử Bạc Liêu là một ao ước gì đó thật xa vời so với nếp nghĩ quen giản đơn của họ. Nhưng Tết thì dù nghèo đến mấy, người ta vẫn phải lo cho nó thật thiêng liêng và trang trọng.

Trên tinh thần đó, Tết cổ truyền miền Nam - trước hết là Tết của gia đình, họ hàng, thân tộc. Đã thành tập quán, "tháng Giêng ăn tết ở nhà" nên dù ai ở bất cứ đâu, làm bất cứ nghề gì, cứ năm hết Tết đến cũng đều mong được trở về sum họp gia đình. Tết đã nối gần bao khoảng cách: Người Cà Mau lên Sài Gòn làm ăn, hễ tới ngày Rằm tháng Chạp, đã ngoái cổ bồn chồn ngóng nhìn về quê và bằng mọi giá phải tìm cách trở về.

Theo quan niệm dân gian ở miền Nam, 3 ngày Tết là phải có đủ 3 cuộc gặp gỡ hết sức quan trọng ở ngay trong một gia đình. Trước hết là cuộc gặp với các vị thần linh, không cao xa, huyền bí như ở các đền, miếu mà là 3 vị gia thần: Tổ sư (Tổ nghề), Thổ công (Ông Địa) và Táo quân (hay thần Bếp). Cuộc gặp thứ hai là với những người thân đã quá cố và ai cũng mong là họ sẽ trở về chung vui với con cháu qua mâm cỗ cúng. Cuộc gặp thứ ba là họp mặt gia đình. 

Vì vậy, như ở mọi nẻo đường Việt, Tết Nam Bộ cũng vẫn là ngày hội đoàn tụ, đoàn viên.

Hoa và quả

Trong mỗi gia đình, bàn thờ tổ tiên rất quan trọng. "Sự tử như sự sinh, sự vong như sự tồn", đạo lý ấy đã kết đọng lại trong mọi hình thức tưởng niệm bên bàn thờ. Cúng ông bà bao giờ cũng phải trang nghiêm, dù người ta có thể đang túng bấn.

Ở Nam Bộ, Tết về với bàn thờ gia tiên là qua mâm ngũ quả gồm 5 loại trái cây: Mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài và sung; ngụ ý mong Năm Mới được sung túc hoặc chỉ cầu vừa đủ xài. Ngoài ra, người ta còn chưng cúng những loại trái cây có ý nghĩa: Mận, điều, táo (Để mong gạo nếp đầy bồ); lê (Làm việc gì cũng trơn tru, suôn sẻ); lựu (Con đàn cháu đống), đào (Học đâu đỗ đó, thăng quan tiến chức); bưởi (Mong người già khoẻ mạnh, sống lâu); thơm - dứa (Gia đình quyền quí, cao sang, tiếng thơm muôn đời) và quýt, tắc (Tài lộc phát hưng). 

Cuối cùng là quả dưa hấu. Cúng dưa hấu hàm ý xanh vỏ đỏ lòng, mong con người hãy lao động vững chí tự lực cánh sinh. Trái dưa chưng trên bàn thờ thường dán mảnh giấy đỏ viết chữ Phúc (có phước) hoặc chữ Cát (tốt lành) bằng Hán tự. Ngoài ra còn có đĩa trầu, quả cau và bình vôi, tượng trưng cho tình nghĩa mặn nồng, keo sơn theo quan niệm dân gian.

Bánh tét là món ăn truyền thống. Cũng được làm từ nếp, đậu xanh, thịt heo như bánh chưng của miền Bắc nhưng bánh tét được gói bằng lá chuối và tết thành những đòn dài - Cứ 2 đòn cột thành một cặp, với mong muốn một năm mới toàn vẹn đủ đầy, gia đình sum họp, hạnh phúc.

Người miền Nam xa xưa đã biết chơi cây kiểng trong mùa Tết. Cây mai ở miền Nam có thân cứng, nhánh toả mảnh khảnh, gân guốc, hoa màu vàng nở rộ vào tháng Chạp và đầu tháng Giêng âm lịch. Mai mang nét tổng hợp giữa cương và nhu, ngoại diện tuy khắc khổ nhưng nội tâm sâu sắc, lãng mạn. Hoa mai chính là biểu tượng của mùa Xuân tươi trẻ, rạo rực sức sống. 

Sắm Tết ở quê

Cái phóng khoáng và tật ăn chơi ngút trời của dân Nam Bộ liệu có đem lại một diện mạo gì khác cho phong tục mua sắm và đi chợ Tết thời bấy giờ?

Một phần công đầu tiên có lẽ thuộc về mấy ông Hoa kiều Quảng Đông. Một số nhà sưu khảo nói rằng hồi đó, những cửa hiệu tạp hóa (điếm) đã trở thành một phần nhu cầu trong việc mua sắm Tết của người dân miền Nam; bởi họ thích những gì nhanh chóng, tiện lợi mà gần gũi. 

Người Hoa giỏi mua bán, tính toán đã nắm được nhu cầu và ý thích của người tiêu dùng ở miền Nam thuở trước. Bằng chứng: Theo thời gian, chữ điếm mất dần phụ âm đầu, dân khẩn hoang chỉ giữ âm tiết cuối và đọc trại đi là tiệm. Nhưng cũng đừng quên có một cách giải thích khác, giản đơn hơn nhiều mà chưa được kiểm chứng: Người Nam Bộ vốn "làm biếng" trong câu chữ, đọc sao thấy tiện, thấy nhanh là được và đó cũng chính là thói quen sắm Tết của họ.

Cũng theo ký ức nhiều bậc lão niên, những tiệm chạp phô bấy giờ thôi thì bán tả pí lù đủ thứ. Nếu rủng rỉnh tiền đã có phong bánh ngọt, thẻ đường phèn ăn cho mát miệng. Vậy là người dân đất ruộng vườn chẳng cần đi đâu cho xa, cứ gần Tết ra tiệm chạp phô ở đầu kênh, mua một lần là đủ xài suốt mấy ngày đầu năm, từ miếng ăn cho đến phong bao lì xì đỏ chói.

Người dân Nam Bộ quen với cách sống phóng khoáng, hào sảng; họ đâu để ý chi đến chuyện bỏ bạc cắc ra sắm Tết nhiều lần? Tiền, dành dụm một năm do làm ruộng hay đi làm ăn xa là đã quá đủ để mua một lần cho sướng! Tiền, hàng hóa ngày thường, và cả ngày Tết, qua đó đã luân chuyển, xoay vòng và như một mắt xích giúp cho các lưu dân sống nương tựa vào nhau. Nhưng điều cốt lõi nhất là vẫn cần một chữ tín. Người ta nhiều khi mua được hàng Tết thiếu chịu sang được tới tận sau Năm Mới, nhưng một khi đã hứa, là phải trả!

Chiều 23 Tết, người quê nghèo có thể mua từng món hàng mã, từng ký than nướng bánh bông lan, vài cái ống khói đèn để chăm chút mâm cỗ chiều 30. Thể nào người bán cũng dễ dãi cười khà khi phát hiện ra thằng cháu nhỏ mua hàng có lén quệt một miếng đường mật để đưa vào miệng mút vội ngon lành. Nhưng với Tết ở miền Nam, bao giờ người ta cũng cười xòa xí xóa cho nhau.

Cười xòa như khi người ta chèo ghe hay xuồng từ làng này sang làng khác để chúc Tết, cười xòa như khi đi trên cầu khỉ chênh vênh với tấm áo mới tinh khôi, và cười xòa bên chén nước trà tươi thoảng đậm đà tình làng nghĩa xóm… 

(Thúy Tân)

Mới đó đã là chuyện xưa

     Hơn một năm ngoài nay, chợ Cổ Cần Thơ đã được mở lại sau khi đã “tân trang nhan sắc” với hực hỡ sắc màu. Nghe nói, chợ Cần Thơ xưa sẽ trở thành chợ phục vụ khách du lịch. Một chiếc cầu sẽ thay thế phà Xóm Chài. Hàng dừa xưa nay cũng được khôi phục lại trên một công viên nho nhỏ gần chợ. Lại không khỏi ngỡ ngàng khi chợt nghĩ vẽ tô kiểu này sao giống cây kiểng trong vườn. Đối với người miền Tây, những trung tâm thương mại vẫn là một khái niệm hết sức kiểu cách, xa vời. Họ chỉ nghĩ đơn giản một điều, chợ xa bến thuyền có còn là chợ, vắng chợ rồi thuyền neo bến làm chi. Tẩn mẩn nhẩm tính – chợ Cần Thơ đã trên một trăm tuổi, bến Xóm Chài cũng ngần ấy thời gian – chẳng lẽ rồi chỉ còn trong ký ức.

     CHỢ XƯA MỘT THUỞ 

     Từ xưa, có lẽ từ trên 100 năm nay, chợ Cần Thơ đã hình thành dọc theo ngã ba sông Bassac - Cần Thơ। Dần dà chính quyền thuộc địa đã qui hoạch ở ngã ba sông một khu nghỉ dưỡng gọi là Bungalon bốn bề lộng gió sông Bassac (nay là sông Hậu) và dọc theo bờ sông lại có một công viên chạy dài với những tên gọi mỹ miều là Bến Ninh Kiều hay bến Cầm Thi. Những ông lão, bà lão thì nhớ rất rõ từ hồi xửa, hồi xưa, công viên đã được trồng rất nhiều cây dương, cắt tỉa cẩn thận với nhiều hình dáng rất đẹp mắt. Kề bên lại có cả bến tàu sông, với những chiếc tàu chạy lên Sài Gòn và ngược tận Nam Vang. Trên bờ, những sạp bán hàng xén, bán rau cải vào ban ngày, ban đêm được dọn sạch để bán đồ ăn, thức uống phục vụ cho chợ đêm và cho bến tàu. Dường như, không người Cần Thơ cố cựu nào mà lại không một lần đến đây, vào chợ ghé tiệm chè của mấy chú Hoa Kiều để ăn một chén chè hột gà, chè củ năng hay một ly sâm bổ lượng... Rồi mỗi sáng hừng đông khi những chiếc ghe chở khẳm cây trái miệt vườn với những cô thôn nữ ở tận Trà Ôn, Nha Mân, Ba Láng... ghé lại là cả bến chợ cứ xôn xao, nhộn nhạo. Những yếu tố trên bến, dưới thuyền như vậy đã tạo ra cho chợ Cần Thơ, cho đất Tây Đô một nét đặc trưng Nam Bộ khá đậm đặc. 

     Giở lại những trang tài liệu sưu khảo xưa để xem ngôi chợ này thật ra đã được bao nhiêu tuổi। Mới biết, năm 1876 chính quyền lúc bấy giờ đã tái lập hạt Cần Thơ và lấy chợ Cần Thơ làm trung tâm tỉnh lỵ. Đến năm 1897, Cần Thơ đã có 2 nhà thơ dây thép và 10 chợ vì họ xem đây là ải địa đầu quan trọng để nối Hậu Giang với Sài Gòn Chợ Lớn. Qua cửa ngõ này biết bao sản vật, bao lúa gạo ở miệt Nha Mân, Sa Đéc hay Rạch Giá, Cà Mau theo kinh xáng Xà No đã được khai thông bằng con đường ngắn nhất. Trong 10 chợ vừa nhắc đến thì có hai chợ bán buôn xung nhất, đó là chợ Cần Thơ ở làng Tân An, tổng Định Bảo và chợ Cái Răng, làng Thường Thạnh. Nghe đâu, từ khi lập chợ Cần Thơ thì nền kinh tế của các vùng lân cận đã vực dậy, sung túc hẳn lên. Chẳng mấy thời gian, sau khi lập chành, dựng chợ đã thấy đất chật người đông. Đến năm 1966, ông Trưởng Ty kiến thiết của chính quyền hồi đó đã lập một đồ án xây dựng lại chợ Cần Thơ với số tiền sẽ bỏ ra lối chừng mấy triệu bạc. Theo đó, một ngôi chợ mới với quy mô 3 tầng – phỏng theo mô típ chợ Đà Lạt - sẽ sừng sững bên bến Ninh Kiều. Người ta sẽ dành hẳn một tầng trên cùng để làm nơi ăn uống, thưởng ngoạn cảnh vật chung quanh. Tuy nhiên do nhiều biến động lịch sử xảy ra nên ý định đó không thành. Nhưng điều gây ấn tượng nhất cho đến bây giờ vẫn là cách đặt tên cho những phố chợ hồi đó đã hết sức dân dã kiểu miệt vườn. Như phố chợ Hàng Dừa, Hàng Xoài, Hàng Me... đơn giản chỉ vì ở đó được trồng toàn dừa hoặc toàn xoài, toàn me. Cũng như người dân Cần Thơ vẫn quen gọi chợ Cần Thơ là chợ Hàng Dương. Họ đã lý giải một cách có lý rằng, chợ miền Tây phải mang dáng dấp của chợ quê ngay từ cái tên gọi. Cũng như một cô thôn nữ chèo xuồng trên sông Ba sắc thì không thể nào kè kè một cái bóp đầm trên tay được (!). Mà quả là những cái tên đó đã ăn sâu vào tiềm thức người dân ở đây đến đỗi 100 năm sau họ vẫn gọi như thế dù trải qua bao dâu bể, bóng xoài và cả dáng dừa đều đã mất đi. Từ tiềm thức của đa số người dân mà chợ Cần Thơ gắn liền với bến Ninh Kiều đã là một biểu tượng của đất Tây đô. 

     Có lẽ không nơi đâu mà lại gắn kết những số phận con người ta cho bằng... chợ. Bao buồn vui nhân tình thế thái đều hiển hiện mồn một ở nơi này. Cũng như chợ Cần Thơ vậy. Nhiều người khi đi xa cả nửa vòng trái đất vẫn thèm được về để được đi chợ, được ăn quà. Chỉ có ở đó mỗi một tô bún, mỗi một ổ bánh mì thịt mới gắn bó với từng số phận con người cụ thể. Những số phận đã đem lại cái hồn, cái thi vị vào từng miếng ăn. Như chuyện ông lão Hoa Kiều bán bánh mì xá xíu ở đầu ngõ chợ Hàng Dừa. Bánh mì của ổng thì cũng thường thôi nhưng có nhìn cái cách ổng cẩn trọng xẻ đôi ổ bánh, xắt từng lát thịt xá xíu mỏng manh rồi đem đi... cân lượng lại trên một cái cân tiểu ly đã lên nước bóng loáng mặc cho người mua bụng đói cồn cào mới biết. Người mua sốt ruột hỏi “Làm chi kỹ vậy ông, một ổ có hai ngàn đồng bạc, nhắm chừng đại khái thôi”. Ổng bảo: “Nị nói dậy hổng được dồi. Ngộ cân mới công bằng chớ”. Chỉ đơn giản vậy thôi mà đã mấy chục năm nay, bao thế hệ người dân cố cựu ở Cần Thơ vẫn chung thủy đứng chen chúc bên xe bánh mì này। Hoá ra một chút... công bằng của ông già bán bánh mì đã cầm chân được biết bao con người, biết bao thế hệ. 

     Hoặc giả chuyện bà Sáu “cô đơn” bán bánh kẹo, đường sữa. Ôi thôi ! Bao nhiêu câu chuyện đã được thêu dệt quanh chuyện tình duyên gia đạo – miệng thế gian thường vậy – của mấy chị em nhà này. Dì Ba, cô Bảy, chị Tư miễn đi chợ chung là xúm lại với nhau xầm xì “nhiều chuyện”. Chị em bà Sáu biết hết nhưng không để bụng. Cứ vậy, hết năm này tháng nọ “cô đơn” hay không thì chẳng ai biết, có điều những mặt hàng sữa đường bánh trái đố ai bán lại chị em bà Sáu. Gian hàng cứ đông vui như hội. Mà nói chi đến những người mua bán lớn. Nhớ ngày, ở trên công bố sẽ sửa chợ Cần Thơ để hình thành một ngôi chợ chuyên phục vụ khách du lịch lại thấy buồn. Bao nhiêu hàng cá, bao nhiêu hàng rau, bao nhiêu hàng trái cây… chộn rộn di dời đi nơi khác. Hôm đó, dì Bảy bán bún mắm đầu đường bảo, chợ dẹp rồi dì nhớ nhất con nhỏ bán sả ớt. Ôi thôi, miệng bằng tay, tay bằng miệng. Lâu quá, mới ghé lại thế nào nó cũng lăng xăng lít xít hỏi thăm rồi cho thêm vài ba trái ớt dù dì Bảy chỉ mua có... hai trăm đồng sả (!). Lại nhớ, con nhỏ Tư trên Bình Thuỷ xuống ngồi ké bên sạp dừa khô của bà Tám để bán “cò bay, ngựa chạy” mỗi khi Tết hay ba mươi, mùng một đến. Và cũng lạ một điều, hiếm có nơi đâu người ta lại bộc phát một tình cảm chơn chất, ấm lòng như… ở chợ. Lại nhớ một chuyện khá thú vị. Hôm nọ, anh Ba Bé, Giám đốc Xí nghiệp In Cần Thơ có khách trên Sài Gòn xuống, muốn đãi khách ngặt nỗi bận quá không ra chợ được. Ảnh bèn sai lính đem một mẩu giấy cho một cô bán cua mà ảnh… biết mặt chứ không biết tên với nội dung như vầy: “Cô bán cua ơi, tôi là người hay mua cua nè. Bữa nay có khách, cô cho tui mấy ký cua gạch son chắc càng nghen. Hôm nào rảnh tui ra trả tiền sau”. Và cô nàng cũng chuyển lại một giỏ cua kèm một mẩu giấy cho người mua… không tên như vầy: “Anh mua cua à ! Em tên là Loan, còn con nhỏ bán chả cá kế bên em tên là Thuỷ”. Chẳng hiểu giờ cô Loan đã phiêu dạt đến nơi nào, chỉ có điều “cái tình” ấy làm sao anh Ba và cả những người như tôi quên cho được ! 

     Dường như những ai thường đến nhấm nháp bữa điểm tâm tại nhà hàng Hoàng Cung, đầu ngõ chợ vải – hồi xưa gọi là chợ Gà sẽ không lấy làm ngạc nhiên khi thấy Xuân thu nhị kỳ hai ông Trí và Hùng đều ăn sáng ở đây। Đơn giản chỉ vì với cái góc nhìn từ Hoàng Cung hai ông mới thỏa cái thú... ngắm chợ Cần Thơ. Nghe đâu, hai ông đã gắn bó với cái chợ Cần Thơ này từ thưở nảo, thưở nao. Hai ông thân với nhau lắm và cũng khá cực đoan theo cách nghĩ, theo cách sống của mỗi người. Ông Hùng, nay là giám đốc Công ty May Tây Đô, nhưng hàng mấy chục năm trước ông từng kinh qua nhiều cái cửa hàng trưởng của chợ Nhà lồng Cần Thơ. Từ bách hoá tổng hợp cho đến chợ cải, chợ cá. Ông yêu cái chợ đến đỗi thuộc lòng từng cái ngạch cửa chợ, từng viên đá lát, thậm chí cả cái khung cửa sắt đã bung gỉ. Cho đến bây giờ, khi đã ở một cương vị khác ông vẫn la cà với chợ. Và dân tiểu thương mỗi khi mích lòng nhau chuyện gì, hay khó khăn vốn liếng lại túm lấy ông để nhờ phân giải. Mấy bà bán cá lại hay nhờ ông Hùng truyền cho bí kíp nhìn mặt cá đồng, đâu là cá lóc U Minh, đâu là cá lóc nuôi bè. Thêm một điều ông lại khoái đi đổi tiền lẻ giúp cho mấy sạp báo ngoài chợ. Không phải màu mè gì, chỉ đơn giản là nhờ vậy mà ổng mới có cớ... đi dạo chợ Cần Thơ. Ông Trí bạn ông cũng thăng trầm không kém. Nhớ hồi thời bao cấp – ông Hùng phân cho ông Trí một sạp bán vải trong khu bách hóa – vẻn vẹn 1,4 mét vuông cho tấm thân đô con cao gần mét tám. Cũng có lúc thấy làm ăn với Nhà Nước không khá, ông Trí bỏ ra bán quần jean lậu ngoài lề đường, ông Hùng lại chạy xe đi kiếm. Lại có lúc ông Trí bỏ đi bán đồng hồ, lại thấy ông Hùng đi tìm. Tình bạn của hai ông cứ chạy đèn cù quanh cái chợ Cần Thơ. 

     Nói cho hết chuyện chợ Cần Thơ thì có mà trăm năm. Còn nhớ lúc di dời tiểu thương đi, dân tình chỉ thắc mắc một điều – trên nền chợ cũ sẽ mọc lên cái gì. Ông Hùng lạc quan với một mô hình chợ đêm sẽ mọc lên. Ông bảo, bao nhiêu khách sạn có sao, không sao của Cần Thơ đều ở xoay quanh trục đường này. Mở một chợ đêm sẽ là cơ hội hốt bạc của du khách. Ông Trí thì nhấm nhẳng nói: “Sao độ rày tui thấy đường phố bớt xung”. Đâu đó trong tâm tưởng, hai ông vẫn hoài nhớ một ngày xưa, một thời chợ đã như một chứng nhân chứng kiến bao nỗi thăng trầm của cuộc đời hai ông, của cuộc đời bao nhiêu người khác। 

     Có lẽ không một đô thị miền Tây nào lại có được một vị thế tuyệt vời với những bố cục phố xá như Cần Thơ và chợ Cần Thơ। Thử tưởng tượng, hàng loạt khách sạn, nhà hàng, tửu điếm mang những cái tên: Đế Vương, Hoàng Cung, Phong Nhã, Hào Hoa... Rồi hàng mấy rạp chiếu bóng – mà hồi xưa đã phân định, rạp này chuyên chiếu phim Tàu, rạp kia phim Chưởng, rạp nọ chuyên trị Ấn Độ lại Tây Phương. Tất cả đều xoay quanh tâm điểm là chợ Cần Thơ. Liệu khi về nơi mới, chợ mới có hội đủ các yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hoà kể trên cho các tiểu thương đã gắn bó từ bao đời nay với chuyện mua, chuyện bán. Quan điểm, di dời hết tiểu thương của một ngôi chợ trên 100 tuổi để điều chỉnh sự hưng thịnh cho Trung tâm thương mại Cái Khế mới quả là vấn đề đáng bàn cãi. Bản thân chợ không bao chịu sự áp đặt. Bản chất của chợ là tự phát, vấn đề là tự phát như thế nào để các nhà quản lý sẽ điều chỉnh đến đó. Khu chợ mới sẽ tự nhiên sẽ sung túc, náo nhiệt lên nếu có đầy đủ yếu tố chứ không thể “ép duyên” là “nên vợ nên chồng”. Nhiều người cứ băn khoăn mãi với việc dành bao nhiêu diện tích cho chợ đêm, bao nhiêu cho công viên. Họ bảo, sau khi giải toả chợ Cần Thơ thì các trục đường Võ Văn Tần, Châu Văn Liêm, Ngô Quyền sẽ như những hành lang thông gió cho đô thị. Trộm nghĩ, lẽ thường âm dương phải hoà hợp. Một khi, gió thổi lồng lộng mà khách bộ hành thưa thớt liệu có vượng khí được hay không. Giờ thì ngôi chợ cổ Cần Thơ 100 tuổi đã được “tân trang nhan sắc” với những đèn màu chớp tắt hực hỡ. Bên trong cũng có bán hàng, nhưng những kiến trúc sạp chợ như những kho chứa hàng xếp san sát thấy phản cảm gì đâu. Mặt tiền phía bờ sông lại bị một Nhà hàng của Tây án ngữ. Vậy thì liệu có “anh bán chiếu” nào dám ghé để ngẩn ngơ nhìn cô thôn nữ miệt vườn dạo phố. Mà người đi chợ cũng thưa thớt lắm rồi. Lại nghe đâu, bến thuyền sẽ dời về cầu Bắc Cần Thơ. Xa hơn một chút là những cọng dây cáp treo chăng ngang qua sông Hậu để chở du khách qua cồn Ấu thay thế nhiệm vụ của những chuyến đò ngang. Lại trộm nghĩ – “Thô bạo quá – vậy còn gì là miền Tây”. 

     Hôm nay là chuyện vắng chợ, ngày mai mất bến thuyền, ngày kia nữa vắng hẳn những chuyến đò ngang. Và nụ cười duyên e ấp của những cô gái xóm Chài riết rồi cũng thành dĩ vãng. Biết rằng con ngưòi ta không thể cưỡng được làn sóng “xâm thực” của cái gọi là văn minh đô thị. Nhưng lại nghe đâu đây bao tiếng thở dài hoài cảm, xót xa. Họ chỉ mong một ngày chợ tìm lại được nét duyên xưa.

     CHUYỆN XÓM CHÀI: 

     Rồi đây, theo quy hoạch đô thị hết sức “tân tiến, văn minh” - một chiếc cầu bê tông bề thế sẽ kết thúc nhiệm vụ từ hàng thế kỷ nay của những chiếc thuyền ba lá, những chiếc phà trên bến Xóm Chài, Cần Thơ। Mà đâu đợi gì đến lúc đó, từ khi chợ Cần Thơ được quy hoạch, cải tạo lại, ghe thuyền neo bến nơi này đã ít hơn xưa. Duy ánh đèn màu của dãy khách sạn Golf, Quốc Tế, Ninh Kiều vẫn nhẫn nại lung linh hắt xuống mặt sông đen sẫm. Bên kia bờ là Xóm Chài – như một bè trầm tương phản – tĩnh lặng trong màn đêm. Khác với Sài Gòn náo nhiệt, đêm Tây Đô yên ắng quá, tưởng chừng như có thể lắng nghe được tiếng thở dài của sông. Và khoảng cách đôi bờ vẫn chưa là một khoảng với cho tiếng gọi Đò ơi ! Vậy mà đã bao đời nay, bến sông đó như một chứng nhân cho bao thân phận đàn bà sống kiếp chèo thuê. Hàng đêm, họ cứ ngồi chết lặng nhìn những ngọn đèn xanh đỏ bên kia sông mà như mơ về một nơi xa lắm... 

     Còn nhớ, cả một đoạn Xóm Chài gần như xôn xao cả lên khi thấy chúng tôi lỉnh kỉnh nào túi, nào máy ảnh đi hỏi thăm nhà chị Ánh chèo đò। Đã bao năm rồi, ngôi nhà ấy không có bóng dáng đàn ông. Khi biết chúng tôi là loại khách du lịch bụi thường thuê chị Ánh chở ra sông Hậu nghêu ngao giữa sông nước bốn bề, họ ồ lên ngạc nhiên. Họ cứ ngỡ chỉ có Tây mới làm như thế. Khác với vẻ lanh lợi, bẻm mép thường thấy của những chàng trai, cô gái đưa rước khách du lịch trên sông - ở chị thường có một chút chi cam chịu, nhẫn nhục trước số phận đẩy đưa. Và trong những câu chuyện lan man, ngắt quãng suốt chuyến đi, bao giờ cũng thấy thấp thoáng bóng dáng, số phận lam lũ của người dân Xóm Chài. Chị không mừng khi chúng tôi biếu thêm sau mỗi một chuyến đi những tờ giấy bạc xanh, đỏ. Chị chỉ lạ, vì như vậy đã là quá sang cả với người dân Xóm Chài. Để có những tờ giấy xanh, đỏ mà du khách hào phóng rút ra không cần suy nghĩ đó, họ phải mải miết chèo cả sáng, cả chiều đến những bến đỗ xa tít tắp ở Cái Sâu, Bùng Binh, Bến Bạ, Cả Nghi... Chị bảo, ở Xóm Chài chỉ năm xóm dân thì có đến 7 bến đò đón khách sang sông. Dù tiền vé cho mỗi lượt khách chỉ hai trăm hoặc năm trăm đồng nhỏ nhoi nhưng họ vẫn cứ bám lấy như đã là một cái nghiệp. 
     Có lần, tôi tò mò hỏi chị chèo đò đã bao nhiêu năm। Chị Ánh mộc mạc hỏi đứa em đang ngồi trước mũi ghe: “Thằng Len năm nay bao nhiêu tuổi hả Út”. “Mười chín chứ bi nhiêu. Hồi chị sanh nó xong má để tài đò lại cho chị tới giờ, hổng nhớ sao”. Vậy đó, ở họ hình như không có một khái niệm cụ thể về thời gian। Cuộc sống với biết bao biến động, bao cuộc mưu sinh cứ ập đến trên đôi vai cô gái đã toan về già này. Họ chỉ biết một khái niệm thời gian vật chất qua con nước lớn, nước ròng trên bến sông đỏ ngầu phù sa. Má chị Ánh chết cách đây 6 năm, lúc đó bà 56 tuổi. Không ai nhớ tên thật của bà là gì, đã mấy chục năm nay họ gọi chết tên bà là Bà Bảy Xóm Chài. Cũng như tên bà ngoại của chị Ánh là Bà Năm bán trầu. Không như đứa con gái vắn số của mình, bà Năm vẫn minh mẫn dù đã ngoài 80. Bà bảo, trước bà ở kinh So Đũa Vàm Sáng miệt Phụng Hiệp. Bà theo chồng đến đây sinh cơ lập nghiệp đã trên 50 năm. Hồi đó, ở đây còn là rừng hoang vu, xa xa chỉ có một cái nhà. Cũng như những người đàn bà khác trên bến sông, bà Năm bán buôn lặt vặt cho khách thương hồ rồi mót máy dành dụm tiền mua một chiếc đò ngang kiếm kế mưu sinh. Thời gian cứ như chớp mắt. Chính họ cũng không sao hình dung nổi đã có ba thế hệ trong căn nhà này gắn chặt cuộc đời theo con sông lững lờ chảy ngoài kia. Chị Ánh bảo, hồi mới sanh thằng Len xong chị ước mơ đủ thứ. Chị dặn với lòng ráng kiếm tiền nhiều hơn để cho đời con được khá, nó được qua bên kia bờ chen vai thích cánh với người ta. Thời gian càng qua đi lại càng bào mòn những ước mơ ấy. Giờ thì chị chỉ mong có tiền mua một chiếc máy tốt hơn cho con trai đưa khách đường xa. 

     Vậy đó, ở bên bến sông này đã có một ngôi nhà, một con đò của 3 cuộc đời, 3 thân phận đàn bà। Cả ba người đàn bà này đều gặp nhau ở một điểm chung nhất. Họ cứ đau đáu nhìn qua bên kia sông, ở đó là bến Ninh Kiều có đèn ngọn xanh, ngọn đỏ, có dập dìu tài tử giai nhân. Họ ước muốn con mình, cháu mình rồi sẽ đổi đời, cuộc đời nó sẽ có màu như ngọn đèn xanh đỏ ấy. Ôi chao, một ước mơ đi suốt ba thế hệ của ba kiếp người. 

     Cũng sinh cơ trên đất Xóm Chài nhưng sự gắn kết cuộc đời anh Phan Văn Đấu với khúc sông này thật ngẫu nhiên, thật tài tử. Anh quê miệt Tân Thành, Cà Mau. Cách đây 15 năm khi còn là một chàng trai trẻ, lực điền anh theo bạn bè đi than, đi củi và thường neo đậu ghe ở Xóm Chài. Mỗi lúc nằm chờ con nước lớn để nhổ neo anh hay ngâm nga mấy câu vọng cổ của Viễn Châu... “Chiếu Cà Mau cặm sào trên dòng sông Ngã Bảy...”. Chỉ ca thôi chứ không dám tỏ tình, chọc ghẹo những cô gái trên bến sông। Anh sợ cái ngoa ngoắt của họ thì ít, buồn cho cái kiếp nổi trôi của mình thì nhiều hơn. Thành thử anh đã sững sờ khi bắt gặp cái nhìn len lén của cô Phúc đò ngang. Vậy là hai cuộc đời nổi trôi ấy đã gắn kết với nhau trên chiếc ghe. Họ có với nhau một mặt con cũng trên chiếc ghe ấy. 

     Mới đây, anh Đấu khoe đã mua được một căn nhà nhỏ ở Xóm Chài để chị Phúc “lên bờ” nuôi con. Riêng anh, “lên đời” chiếc ghe có tải trọng lớn hơn một chút để đi chở thuê cát, đá. Chị Phúc bảo, những ngày giáp Tết, khách thuê mướn nhiều anh đi biệt cả tháng mới về. Nhưng chị không buồn vì đó là ước muốn để được đổi đời của anh. Nhưng chị lại chạnh lòng khi có ai đó hỏi han chuyện học của con trai chị. Thằng Chiến năm nay 13 tuổi nhưng mới học hết lớp 3. Cái nguyên cớ sâu xa để anh Đấu, chị Phúc nhất quyết lên bờ chính vì muốn thằng con mình được “lên trường”. Nhưng cạy cục mãi thằng Chiến vẫn không lên được trường công vì quá tuổi nhiều quá – cái giá của những chuỗi ngày lênh đênh trên sông nước cùng cha, mẹ. Hôm qua, nó rủ rỉ bảo với chị Phúc – “Má cho con nghỉ học theo ghe phụ ba. Chớ con lớn tồng ngồng nhứt lớp mắc cỡ quá hà”. Chị Phúc nhìn chết sững thằng Chiến mà xót xa vì một nỗi không thay đổi được gì cho कों. 

     Còn nhớ mấy năm trước, cả Xóm Chài này đã xôn xao cả lên khi nghe tin Nhà Nuớc sẽ quy hoạch cả cái cồn Hưng Phú này thành khu công nghiệp, khu du lịch sinh thái। Lâu lâu lại có những ông áo quần bảnh bao qua đứng chỉ chỏ, bàn tán đây sẽ là đầu cầu Cần Thơ, kia sẽ là đầu cầu Quang Trung. Giá đất theo đó cứ lên vù vù. Cư dân Xóm Chài cứ ngỡ phen này được đổi đời đến nơi. Mà có riêng gì họ. Tôi nhớ, hồi đó anh Nguyễn Hữu Xuân, chủ tịch phường cứ trăn trở mãi về những quy hoạch chi tiết. Bờ Nam sẽ là khu công nghiệp, kia là lò gạch tuy nen Phú An. Rồi dãy bờ sông này sẽ dãn dân để hình thành khu du lịch sinh thái với những bờ kè không thua kém công viên Ninh Kiều. Anh sôi nổi nói về những dự án thu hút lao động tại chỗ khi mai này khu công nghiệp mọc lên. Nhưng rồi cũng chỉ là nhũng toan tính, dự định. Tôi đã phải giật mình khi biết để thực hiện dự án ấy nội tiền giải tỏa, bồi hoàn đã trên 200 tỷ. Giá đất tạm lắng. Nghe đâu trong cơn sốt đất trước đó, có đến gần 200 hộ dân bán đất, sang vườn. Buồn một nỗi, hộ khấm khá lên nhờ bán đất thì ít, sạt nghiệp trắng tay thì nhiều. Đa phần, họ mua một chiếc ghe xuống sông đưa khách kiếm sống qua ngày để tìm kiếm một cơ may nào khác. 

     Những biến động như thế cứ nối tiếp nhau như con nước lớn, nước ròng với những người dân Xóm Chài. Tóc chị Ánh đã lấm tấm bạc. Anh Đấu đã thôi ca vọng cổ. Chị Phúc hay nghêu ngao hát Karaoke. Duy đèn công viên vẫn nhấp nháy đỏ, xanh. Con sông Hậu vẫn lững lờ chảy. Sông biết hết những biến động của lòng người, những khao khát dồn nén dù là thầm kín. Nhưng như bao đời nay, nó vẫn bao dung với tất cả, bảo bọc tất cả với những gì có thể. Chỉ lạ một điều, lần này chính dòng sông lại buồn khi thấy những thân phận đó lại tiếp tục đưa khách sang sông. Các tấm biển xanh đỏ bên kia Xóm Chài vẫn nhấp nháy hực hỡ. Nhưng khi tĩnh tâm một chút lại như nghe được tiếng thở gấp gáp trong giấc ngủ chập chờn của những người vừa đi qua trong tâm tưởng của tôi.

(Theo Dấu xưa Nam Bộ)


10 tháng 2, 2009

Chuyện về ngôi nhà cổ 130 tuổi ở miền Tây (Phần 1)

Trên mảnh đất Nam bộ, những ngôi nhà cổ xưa có lẽ phải còn tồn tại đến hàng trăm cái। Trải qua bao dâu bể, những ngôi nhà ấy dường như đã nhuộm đặc một màu thời gian, lặng lẽ đứng trầm mặc suy tư ở một nẻo đường, một dòng kênh đặc quánh phù sa nào đó. Mỗi một ngôi nhà là một tác phẩm kiến trúc có giá trị mang đậm nét tài hoa của những nghệ nhân hàng mấy trăm năm trước. Và điều hấp dẫn, lý thú nhất lại là những câu chuyện, những giai thoại của những nhân vật, những thế hệ đã sống và đã tạo nên hồn vía cho những ngôi nhà cổ xưa này.

Một trong những tác phẩm kiến trúc cổ xưa tài hoa được gìn giữ khá nguyên vẹn chính là ngôi nhà cổ 130 tuổi của gia tộc họ Dương tại đường Bùi Hữu Nghĩa, quận Bình Thuỷ, thành phố Cần Thơ.

Tôi có một cơ may là hay được hầu chuyện và hầu rượu với ông Dương Minh Hiển - chủ nhân của ngôi nhà cổ Cần Thơ. Tuy sở học không được là bao nhưng đã thành tật, cứ mỗi khi đi đâu thấy đồ cổ – mà thật ra nó có cổ hay không tôi cũng chẳng hay – mắt tôi lại sáng lên, trong bụng thèm muốn vô kể. Ngặt nổi, những đứa viết lách như tôi lương thì ít, bổng lộc lại càng không - lấy đâu ra tiền mà chơi đồ cổ. Tôi bỗng nghiệm ra một điều - chi bằng mình cố kết thân với… những tay chơi đồ cổ. Ít ra cũng được một cái thú cầm tận tay, nhìn tận mắt những bảo vật bao đời… của người ta (!). Thế nên, mặc bạn bè rủ rê tiệc tùng ở đâu đâu cứ hễ Dương lão gia nhắn nhe lên chơi là tôi bỏ tất tật mọi thứ. Kể cũng đáng công, khi người mà tôi có cơ may được hầu rượu lại là chủ nhân của ngôi nhà cổ nhất miền Tây – Tết này đã tròn 130 niên. Gốc tích ngọn nguồn về ngôi nhà cổ và gia tộc họ Dương qua lời kể của Dương lão gia là vầy.

Gia tộc họ Dương vốn gốc ở Nha Mân, Đồng Tháp trôi dạt đến đất Bình Thủy, Cần Thơ sinh cơ lập nghiệp cách đây đã mấy trăm năm có lẻ. Họ được coi là người có công “khai thiên lập địa” ở xứ này. Đến khoảng cuối thế kỷ thứ 19, gia tộc này trở nên giàu có. Chủ nhân bấy giờ là ông Hội đồng Ba bèn bỏ công, bỏ của ra cất một ngôi nhà để… chưng đồ cổ coi chơi (?). Ngôi nhà này được xây dựng mãi từ năm 1870 trên khuôn viên ngót 8 ngàn mét vuông. Dương lão gia bảo với tôi rằng, hồi đó ở xứ này có một ông thầy tên Ba Nghĩa – nhưng dân dã trong vùng quen gọi là ông thầy Lỗ Ban - cất nhà đẹp lắm. Điều đáng nói là ông ta hơi dị hình, dị tướng. Ông cao chỉ độ một thước lẻ mấy phân, xương sống thì cong vòng khiến dáng dấp nhìn nghiêng cứ như… một dấu hỏi. Tư niên mãn mùa, ông ở trần vận độc một cái quần ngắn bằng lãnh đen, trên đầu chít một chiếc khăn điều đỏ chót. Hai món vật bất ly thân của ông thầy Lỗ Ban này là một cái nẻ mực và một chiếc rìu. Chỉ với hai bảo bối đó, ông thầy đã đẻo không biết bao nhiêu cây cột lim tròn vành vạnh. Nhưng với gia tộc này, cất nhà phải đẹp hực hỡ là chuyện đương nhiên phải vậy. Điều kiện kèm theo đó được ông Hội đồng Ba đưa ra lại khá ngặt – “Thầy cất nhà cho tôi đẹp hực hỡ hơn người thì khỏi nói nhưng cốt sao khi cất xong tôi phải giàu lên mới được”. Ông thầy Ba Nghĩa nghĩ ngợi hồi lâu rồi bảo – “Ngặt nổi cái nghề này, miễn gia chủ giàu thì phần số tôi phải mạt”. Ông Hội đồng phẩy tay nói nhẹ hều: “Ậy ậy, đừng lo. Tôi bảo đảm với thầ,y mỗi tháng tôi sẽ chu cấp cho thầy một đấu gạo với ba cắc bạc cho đến mãn đời”. Thực hư của cái hợp đồng xây dựng kỳ dị đó thể nào thì không biết, có điều dân quanh vùng đồn thổi rằng khi lên đòn dong ông thầy Lỗ Ban có ếm bùa, bỏ ngải Hội đồng Ba mới giàu đến vậy. Nhưng gạt qua một bên những câu chuyện nhuốm màu kỳ bí đó thì phải công nhận ông thầy Ba Nghĩa quả là nghệ nhân khi chỉ với cây rìu đẽo lại cất được một ngôi nhà 5 gian, bề ngang đến 20 mét mộng mẹo khít rim. Nghe đâu, việc cất nhà đã kéo dài đến 20 năm ròng rã mới xong. Ngay cả bộ trường kỷ để ngay trước án thờ vốn là kỷ vật của ông Dương Chấn Kỷ - ông nội của Dương lão gia - để lại cũng là món đồ cổ vô giá. Để có bộ ghế bằng gỗ lim này một nghệ nhân người miền Nam đã phải chạm các chi tiết rồng phụng chính xác đến từng milimet một. Bộ ghế lớn là vậy, nặng là vậy nhưng chân ghế chỉ nhỏ bằng cườm tay con nít. Riêng thợ cẩn xà cừ lại là một nghệ nhân miền Bắc thời đó tên Đồng Văn Chiếm đảm trách. Trải qua hơn trăm năm nay nhưng những vẩy xà cừ cứ óng ánh ngũ sắc hực hỡ. Cũng như các ngôi nhà đại địa chủ khác ở xứ lục tỉnh, chủ nhân của ngôi nhà cổ này cũng thuê mướn nghệ nhân dụng công làm nên hàng bao lam nối các cột lim trước án thờ. Nhưng điểm độc đáo mà tôi chỉ mới thấy ở đây đó là các họa tiết trên bao lam không hề có những điển tích Trung Quốc xưa như thông lệ. Toàn bộ các chi tiết trên bao lam này đã thể hiện cảnh sinh hoạt dân dã của chính lưu dân khẩn hoang. Từ con cua, con gà, con tôm, con cá cho đến cành trúc, lùm cây hết sức dân dã. Cảm hứng chủ đạo của các nghệ nhân phải chăng muốn ca ngợi cảnh yên bình của nông thôn xứ Đàng Trong lúc bấy giờ.rở lại với chuyện đồ cổ. Di vật của ông Dương Chấn Kỷ còn để lại là một bức ảnh truyền thần hiện được treo trang trọng ở sảnh giữa gian nhà. Điểm độc đáo ở chỗ, bức truyền thần này được đúc bằng sành tráng men với những chi tiết thật như ảnh chụp bây giờ. Bên trái bức ảnh có hàng chữ Hán Nôm tạm dịch sơ là: “Đề Ngạn An Nam Tường Nguyên Án Tạo”. Người ta bảo công nghệ làm ra những bức ảnh bằng sành tráng men như vầy chỉ có ở Pháp và Trung Quốc từ cuối TK 18. Nhưng với dòng chữ hiện còn lưu giữ ấy tôi lại hồ nghi, chẳng lẽ nghệ nhân Bến Nghé lại làm được hay sao. Nếu quả vậy thì đây là một vấn đề đáng để nghiên cứu. Bức ảnh này đã trãi qua bao biến cố, có lúc gia tộc phải chôn xuống bùn để tránh bom đạn nhưng vẫn không mảy may suy suyển. Gia tộc này cũng còn lưu giữ rất nhiều chung, chén, dĩa… toàn bộ đều là đồ nội phủ, ngoạn ngọc. Cổ nhất phải kể đến cái chén Tuyên Đức Niên Phụng từ đời Minh có niên đại 572 năm, một độc bình Thành Hóa Niên Chế với ngót… 533 tuổi. Rồi một độc bình men lam khác rất độc đáo với những họa tiết phỏng theo điển tích “Tam cố thảo lư” – Lưu Bị ba lần đến lều tranh rước Khổng Minh. Rồi một chiếc lư đồng có 3 chân vạc và 2 đầu nghê rất khó đoán niên đại. Có điều dưới đáy lư có một dấu triện 6 nét thuộc loại “Đại triện tối cổ”. Nhưng món đồ mà tôi hay mân mê mỗi khi có dịp lên nhà Dương lão gia lại là một chiếc lư đồng mắt tre vô cùng tinh xảo. Theo suy nghĩ chủ quan của tôi, thì ngoài chiếc lư mắt tre ở chùa Vĩnh Triều Minh ở Bạc Liêu thì xứ lục tỉnh chỉ còn chiếc này nữa mà thôi. Cũng trong tiệc rượu lần này, Dương lão khoe tôi một chén cổ, ông bảo ông sắp tặng bảo vật này cho một người bạn thân nên đem ra ngắm nghía lần cuối. Cái chén đã có màu thời gian – điểm đáng ăn tiền của đồ cổ. Nhưng đáng nói hơn trên cái chén ngoạn ngọc này ngoài những họa tiết điển tích lại là 4 câu thơ trong bài thơ Đường tứ tuyệt “Đằng Dương Các Tự” của Vương Bột. Tạm đọc là: “Đằng Dương cao các lâm giang chữ. Bội ngọc minh loan bãi ca vũ. Hội đống tiêu phi nam phố vân. Châu liêm mộ quyển tây sơn vũ”. Ngắm nghía hồi lâu, tôi chỉ biết chắc lưỡi tiếc thầm cho Dương lão – Độc đáo đến vậy mà cho về nhà người hay sao!

Lai nói về công tử Cần Thơ một thành viên của ngôi nhà cổ. Quả là hồi nào tới giờ, tôi chưa nghe kể nhiều, cũng như chưa biết ngọn ngành một giai thoại nào về ông ta. Nhưng những lão già cố cựu ở đất Long Tuyền vẫn còn láng máng nhớ chừng. Công tử Cần Thơ, tục danh là Dương Văn Quảng – con của ông Dương Lập Cang, người sáng lập ra ngôi đình Bình Thuỷ nổi danh không kém. Ông Dương Minh Hiển gọi ông Dương Lập Cang là nội Hai. Do lúc về già, ông Dương Văn Quảng có làm Hương Cả nên dân cố cự xứ nầy hay gọi là ông Cả Quảng hơn là công tử Cần Thơ. Ôâng nầy vốn là một tay kinh doanh giỏi, có đầu óc tổ chức nhưng cũng là một tay ăn chơi có hạng, lại sẵn máu “ai có gì mình có nấy”. Tỷ như chuyện bỏ ra bạc ngàn Đông Dương để mua một chiếc “Rờ nôn lỗ mũi xẹp” – xe Renault – chạy chơi cho sướng(!). Nên nhớ, trào đó ở xứ Cần Thơ xe Huê kỳ chỉ đếm trên đầu một bàn tay. Ông quan chủ tỉnh có một chiếc, hai ông quan Tây sở hữu hai chiếc, kế đến chỉ có công tử Cần Thơ nhà mình.Lúc đó, công tử Bạc Liêu Trần Trinh Huy, con đại điền chủ Trần Trinh Trạch cũng đã khét tiếng như một tay ăn chơi phong lưu nhất hạng. Lại thêm có máu ăn thua – ai có cái gì mình phải có cái nấy, thậm chí cái của mình phải lớn hơn cái của thiên hạ (!). Chuyện Hắc công tử – biệt danh mà thiên hạ thời đó gán cho để dễ phân biệt với Phước Georges, Bạch công tử xứ Mỹ Tho – giựt dây Trần lão gia để sắm xe Huê kỳ, sắm trực thăng, ca nô đã trở thành giai thoại đến giờ. Thói phong lưu nhất hạng đó đã khiến Hắc công tử khi ra đường chỉ biết hếch mặt nhìn trời mà bước. Số phận dun dủi thến nào lại có dịp cho hai “ông trời” kể trên đụng độ nhau giữa ban ngày, ban mặt. Chuyện xảy ra đâu như lối những năm 20, 30. Số là hồi đó cầu Cái Răng chưa to lớn, hực hỡ như bây giờ. Nó chỉ là một chiếc cầu sắt đủ cho một chiều xe lưu thông. Nhưng được vậy là sang cả lắm rồi. Còn nhớ, trào những năm 1890, Cần Thơ chỉ có hai nhà dây thép và 2 chợ thuộc loại có tiếng, một ở trung tâm Cần Thơ và một ở Cái Răng thuộc làng Thường Thạnh, tổng Định Bảo. Nhắc thêm một chút mới biết cái phồn thịnh của xứ Cái Răng bấy giờ. Cứ như thông lệ, xe pháo hai bên trước khi qua cầu phải nhìn trước, ngó sau để nhường đường. Đằng này, cả hai chiếc một Renault một Peugeot cứ nhấn ga phóng hết tốc lực để rồi chẳng ai chịu nhường ai ở… ngay giữa cầu (?). Nói nào ngay, xe của công tử Cần Thơ đã chạy qua đâu được 7 phần thân cầu rồi thế nên Cả Quảng mới hầm hầm mở cửa xe xấn tới để đòi “Đánh chết mẹ cái thằng nào dám chắn đường xe của ông”. Nói là làm, công tử Quảng thoi ngay vào mặt Hắc công tử। To chuyện hơn ở chỗ, bàn tay công tử Quảng đeo chiếc cà rá nhận hột xoàn hơi to nên đã… để thẹo, máu chảy ròng ròng trên mặt công tử Bạc Liêu. Sau nầy, khi biết chuyện gia tộc họ Dương đã phải thở dài bảo nhỏ, nếu biết đó là công tử Bạc Liêu thì đã nhịn cho qua chuyện. Nghe đâu, hồi đó cũng lớn chuyện dữ. Cò bót lập biên bản tới lui chỉ để kéo xe cho hai công tử; xe đò lục tỉnh thì bị kẹt đường mất mấy ngày. Riêng hai công tử nhà ta kiện nhau ra Tòa Chánh bố năm lần, bảy lượt. Vụ kiện kéo dài cả năm trời. Đúng là chuyện xui của công tử Cần Thơ.

Tôi đem chuyện nầy hỏi lại công tử Khánh – cháu kêu công tử Bạc Liêu bằng cậu ruột, xem thực hư thể nào. Ông cười lớn bảo: “Chuyện đụng độ, ăn thua như vầy của cậu Ba tui nhiều lắm, tui không nhớ hết. Mà dám có lắm à nghen, trào đó ổng đang đeo đuổi cô Ba Trà huê khôi Nam Kỳ đang trú ngụ đất Cần Thơ mà. Tui độ chừng, chắc là có người đẹp đi cùng nên ổng mới giựt le cỡ vậy đó cô”. Tôi ngớ người ra vì những sự kiện ngẫu nhiên dồn dập đến. Hóa ra, xứ lục tỉnh lúc đó người đẹp nhiều không kém đất Sài Gòn. Nếu ở Sài Gòn có cô Ba Pho, tên Tây của cổ là Rosalie – chủ một nhà may trên đường Sabourain, rồi cô Marie Huê chủ quán cơm “Đông Pháp lữ quán” đường Espagne, rồi cô Ba Cù là, cô Lucie Bandeau thì xứ lục tỉnh nào có kém cạnh. Từ cô Chánh “Bẹt tăng” vợ của nhất hạng tham biện Giudicelli, chủ tỉnh Sóc Trăng cho đến cô Năm Cần Thơ, cô Sáu em công tử Bích xứ Trà Vinh, cô Bảy Hột Điều, cô Tư Nhị từ Nam Vang xuống. Nhưng sáng giá nhất vẫn là cô Ba Trà, huê khôi số một đất Nam kỳ. Người mà cụ Vương Hồng Sển lúc trai trẻ đã phải “cung kính” chắc lưỡi, hít hà mà rằng: “Thưa cô Ba, trong mắt tôi, trong hồn tôi, đối với tôi, cô vẫn luôn luôn, vẫn là người đẹp khuynh quốc, khuynh thành. Tiếng rằng, cha mẹ cho tôi lên đây để ở nội trú, để xôi kinh, nấu sử. Mà xôi và nấu đâu không thấy, đêm nào như đêm nấy, tôi chỉ mơ mộng tưởng nhớ hình dung cô Ba”… Than ôi cho Vương lão gia đáng kính (?!)। Lại trở về mạch chuyện cũ nãy giờ. Lúc đó, cô Ba Trà đang là tình nhân của Phước Georges nhưng lại thêm tật hay vờn cậu Ba Huy – Hắc công tử. Bộ ba nầy hay hẹn nhau ở đất Tây đô để ăn chơi cho thỏa chí tang bồng. Theo hồi ức của cụ Vương Hồng Sển thì: “Hai công tử trổ tài hào hoa, phong nhã với cô Ba, mướn phòng khách sạn Bungalow đánh bài tay ba, chia xong dành nhau chung tiền. Cô Ba gom tiền không hết. Nhưng đụng chạm nói chuyện chơi thì có mà… không có chuyện kia” (?). Sự thực có như ý của Vương lão không thì chưa biết, có điều nói nào ngay cô Ba Trà dẫu biết Cậu Ba lúa thiên, lúa lẫm ngặt nỗi lại chê chuyện Cậu Ba đen đúa, quê mùa. Dẫu Cậu Ba đã cố đeo mắt kiếng gọng đồi mồi, mặc áo nỉ, chơi xe sport như một tay phong lưu nhất hạng. Nghe được bấy nhiêu chuyện cũng đáng cho một cuốc xe lôi lọc cọc mười cây số lặn lội lên Bình Thủy.

Tôi khoan khoái nhủ thầm trong bụng và tiện chân bước tới, bước lui ngắm nghía đồ cổ của Dương lão gia. Bất thần lão gia gọi giật: “Ậy ậy, bây đừng có ngồi lên bộ tràng kỷ bên góc phải nghe chưa”. “Ủa, bộ chân nó bị mục hả lão gia”. “Một trăm năm nữa, mối mọt còn chưa ăn thua. Tao hổng cho bây ngồi lên bởi vì trào trước, đây là chỗ để cặp ngà voi – hổng chừng lớn nhất Việt Nam – ngự lên. Linh thiêng lắm bây "Tuy lão gia chưa kể tường tận gốc tích cặp ngà nhưng tôi cũng nghe loáng thoáng là vầy. Cụ Dương Chấn Kỷ vốn có một đam mê lạ lùng với việc sưu tập đồ cổ mặc dù trông bề ngoài của cụ không ra vẻ tay chơi mấy. Ấy mới sinh chuyện về sau. Số là trong một dịp về Sài Gòn xem mấy cái chành lúa, tiện đi ngang qua đường Catinat, ông vào xem chơi một gian hàng bán tiêu bản thú vật của một tay chủ tiệm, thợ săn người Pháp. Tay nầy thấy ông già mặc đồ bà ba, tay cắp bị bàng cứ đứng mân mê cặp ngà voi bèn nạt lớn – “Nè ông già, đây không phải là chỗ chơi của ông đâu. Lỡ tay ông có làm trầy xước nó thì bán cả gia sản cũng không đủ thường bồi cho tôi”. Liếc nhìn tay chủ tiệm bằng nửa con mắt, cụ Dương Chấn Kỷ thủng thỉnh hỏi lại: “Cỡ bao nhiêu mà dữ vậy chú em. Nói qua nghe thử coi” . Tấn hài kịch vừa nêu không biết diễn ra bao lâu, chỉ biết rằng ông Dương Chấn Kỷ đã đặt cọc một số tiền lớn để rồi dong xe về Cần Thơ chở lên 4 ngàn đồng bạc trắng “con cò” – tiền Liêng bang Đông Dương chính hiệu để rinh về quê nhà. Tay chủ tiệm cầm tiền rồi mà ngỡ như mơ. Chỉ một ngày sau đó, đích thân gia đình công tử Bạc Liêu đánh tiếng mua lại cặp ngà với giá gấp đôi. Quả là không có một thương vụ nào lại sinh lãi cỡ đó chỉ sau một ngày, thế nhưng cụ Dương Chấn Kỷ nhất định không bán. Một phần vì máu mê đồ cổ, một phần vì sĩ diện với tay chủ tiệm người Tây vốn coi người Việt như rơm, như rác. Cũng xin mô tả một chút cho bạn đọc được rõ. Cặp ngà này có một cái dài độ 1,9 mét, cái kia độ 2,2 mét. Dương lão gia đoan chắc, cặp ngà của ông Diệm để trong dinh Độc lập cũng chưa lớn bằng (?). Ông đưa tôi xem tấm hình đen trắng tuy hơi ố vàng như vẫn còn nguyên nét – hình chụp ông lúc trai trẻ đứng bên cạnh cặp ngà, ông to cao là thế nhưng cũng chỉ mới tới mức hai phần ba độ dài của chiếc ngà.Nhưng tiếc một nỗi, gia tộc họ Dương lại không có duyên để giữ cặp ngà. Những năm chiến tranh, để tránh Tây ruồng, tịch thu người nhà họ Dương phải đem đi vùi dưới ruộng ở đất Tầm Vu. Sau sợ bị hư, đánh liều chở về Sài Gòn gởi nhờ nhà một người bà con – bắt đầu cho chuỗi ngày “lưu vong” không có đường về của nó. Không biết, bằng tai mắt nào mà tướng Bảy Viễn lại biết tung tích và cho người đến Dương gia tộc đánh tiếng: “Ông Bảy không nài ép chuyện bán mua ở chỗ này. Nhưng thấy Dương gia lúc nầy coi bộ cũng túng thiếu tiền bạc lắm phải không. Thôi thì coi như thế chấp cặp ngà nầy cho ông Bảy rồi ông Bảy đưa tiền cho xài nghe chưa. Khi nào cần thì ông Bảy cho chuộc lại”. Tiếng là thế chấp nhưng số tiền mà đàn em Bảy Viễn để lại chỉ rất tượng trưng, không đủ uống trà. Dương gia tiếc đứt ruột nhưng cố nén vì không muốn mất mạng về tay đàn em của Bảy Viễn. Cặp ngà lại chu du theo Bảy Viễn về làm vật trang trí cho một Casino khét tiếng ở Vũng Tàu. Trớ trêu một nỗi, Bảy Viễn cũng chẳng có duyên giữ được của báu. Trong “chiến dịch Thoại Ngọc Hầu” đánh úp Bảy Viễn, tướng Dương Văn Minh của chế độ cũ đã tịch thu của quý đem về chưng ở Bảo tàng viện trong Thảo cầm viên. Và nó đã nằm yên vị cho đến ngày nay.

Dông dài nãy giờ, thể nào cũng có người sốt ruột muốn hỏi – vậy Dương lão gia là người như thế nào? Tôi chỉ vắn tắt một câu - ông Dương Minh Hiển đây chính là một ông già lãng tử còn sót lại của TK20. Nội việc ông gìn giữ ngôi nhà cùng các cổ vật đến vậy đã là chuyện dễ nể. Nhờ những nét xưa còn lưu giữ mà ngôi nhà cổ này từng được chọn làm phim trường cho bộ phim lãng mạn “Người tình” của đạo diễn J. Annaud cùng diễn viên chính Claude Berri sẽ nói ở phần sau. Nhưng riêng tôi lại nể ông ở một chuyện khác. Ông có một đam mê lạ lùng là sưu tập các đồng tiền cổ và cũng chỉ những đồng tiền được sản xuất vào năm 1926 – năm sinh của Dương lão mà thôi. Vào năm 1960, ông cho cất một cái chái nhà kế bên ngôi nhà cổ để làm chốn riêng. Nói là chái chứ nó có nhiều điều độc đáo vô cùng. Khắp nhà ông treo vô số đồng hồ cổ và vô số radio cũng cổ không kém phần. Mỗi cái ông rà sẵn một đài khác nhau, cần nghe kênh gì thì ấn nút radio đã định. Hơi rắc rối một chút nhưng ông bảo chơi vậy mới… sướng (!). Dương lão còn khoe, số điện thoại ông đang xài cũng là… đồ cổ. Thấy tôi hồ nghi, ông cười mà bảo – “Hồi 30 tháng 4, tiếp quản xong mấy ông quân báo đằng mình gíup tao kéo dây nói liền. Nội cả xứ này chỉ có nhà tao có cái máy điện thoại. Đâu như cái số hồi đó là 20137 – không phải đồ cổ sao bây”. Nghe vậy tôi chỉ còn có nước gật gù mà thôi.

Có lần tôi đánh bạo hỏi Dương lão một câu – “Vậy chớ hồi nào tới giờ, có chuyện chi mà lão gia thấy “chơi” chưa có đã không?”. “Nè, bây hỏi thì già này mới nói. Chừng nào mà nước mình chưa có quốc hoa, quốc tửu là già này nhắm mắt chưa yên nghen”. Theo ý của Dương lão thì “quốc hoa”, “quốc tửu” là nét văn hóa đặc trưng của một quốc gia không thể nào thiếu được.Lúc giặc giã thì không nói làm chi, giờ thời bình rồi phải nghĩ tới chớ. Nội như chuyện “quốc hoa” hễ nói tới Thái Lan, Singapore là nhớ hoa lan, nói Trung Quốc lại nhớ mẫu đơn, cúc lại là Nhật Bản… Nước mình chọn hoa gì đây. Miền Bắc thì khoái hoa đào, miền Nam thì nhất nhất chọn không hoa mai cũng phải là sen. Nghe đâu, khi các bậc học giả bàn tán chưa đâu ra đâu thì một anh nông dân đích thực bảo chỉ có hoa vạn thọ là đúng nhất. Anh ta lý giải, dân Việt mình bao đời nay từ chuyện cúng ngày rằm, mùng một cho đến Tết nhất nhà nào mà chẳng có một lọ vạn thọ. Nó vừa tượng trưng cho sự khang ninh, trường thọ lại vừa muốn chúc điều may mắn. Vậy là các bậc học giả một phen tóat mồ hôi trước một “luận thuyết” mới.

Hết chuyện hoa đến chuyện tửu Dương lão lại càng mê mẩn hơn.Có lần cao hứng, ông khoe ông đang có trong tay ngót 100 bài thuốc ngâm rượu nổi danh là “đệ nhất thiên hạ”. Từ toa “Ông uống bà khen” cho đến toa “Từ Hy Thái hậu” rồi lại là “Vương bất lưu hành” hiểu nôm na là vua đi không nổi uống vô biết liền – ông bảo ba cái Johnnie Walker của xứ Scotland hiểu trại ra là “Ông già chống gậy” thì làm sao bằng thứ này(?!). Nội chai rượu “Vương bất lưu hành” đã có bao chuyện ngỡ như đùa. Dương lão còn nhớ, hồi mới tiếp thu dưới tỉnh có dẫn mấy ông Tây chuyên nghiên cứu thảo mộc lên thăm ngôi nhà cổ. Nhưng đồ cổ chẳng hấp dẫn mấy ổng cho bằng chai “Vương bất lưu hành” của lão gia. Mấy tay này cứ tròn mắt lên khi nghe ông bảo thật ra đây là loại rượu gạo ngâm với… trái vú bò(!). Về bển rồi mấy tay này còn gởi thư nhờ Dương lão gởi qua cho họ một bao… vú bò để ngâm thử với Martel xem sao. Dương lão tình thiệt cắc ca cắc củm hái đầy nhóc một bao chỉ xanh. Có điều mấy ông chính quyền hồi đó biết tin đã cấm ngặt bởi lẽ… sợ lộ bí mật quốc gia (?). Trở lại chuyện “quốc tửu” ông bảo, gì thì gì phải là thứ rượu làm bằng nếp Bắc hột tròn nhỏ chính gốc. Cất rượu làm sao khi rót ra ly cứ sóng sánh như mật ong, lại phải sủi tăm li ti mới đúng cách. Ông bảo, uống một ly đó thì bao nỗi tự ti dân tộc trước Mao Đài tửu cho đến Cognac, Vodka thậm chí cả Whisky V.S.O.P. đi chăng nữa cũng tiêu tan tuốt tuột. Nhân bàn chuyện tửu, ông già lãng tử này mới đem ra hai chai rượu – bảo vật của gia tộc - trước là khoe sau để đãi tôi uống chơi. Một chai ông bảo ngâm theo toa “Từ Hy Thái hậu” nhưng độc chiêu ở chỗ ông bỏ thêm một bộ… ngọc dương cho phỉ chí. Chai thứ hai cao độ 4 tấc có tên… “Hải cẩu pín” thì khỏi phải nói. Vẫn còn đó giấy tờ, hình ảnh để minh chứng nguyên bộ… “pín” có độ dài bằng bình rượu vừa kể, gia chủ đã phải bỏ công mua tận bên Hồng Kông vào năm 1963. Từ bấy đến nay, cứ 3 năm Dương lão lại thay nước rượu một lần.

Thực hư câu chuyện như thế nào quả là khó bề phân định khi thời gian đã phủ lên một lớp bụi mờ. Duy một điều, khi được cầm tận tay bức ảnh ố vàng chụp cặp ngà voi, tôi cứ có một cảm giác gai gai người như dịp được tận tay sờ những cổ vật trục vớt giữa lòng đại dương trước đây. Và đằng sau những câu chuyện tưởng chừng vô thưởng, vô phạt nầy là cái gì? Tôi chợt nghĩ, nếu một di tích mà thiếu những giai thoại, những giả định liệu nó có tồn tại một cái hồn riêng. Một giá trị tinh thần đủ để níu chân mọi du khách. Chuyện nước lũ, chuyện mối mọt gặm nhấm di tích còn dễ nhận ra, còn dễ lên tiếng, dễ trùng tu. Nhưng những câu chuyện như thế nếu không được ghi chép, không được nhìn nhận đúng mức như một phần của di tích thì liệu có nên chăng. Trong khi đó, những chứng nhân như Dương lão gia, như công tử Khánh thì phần đời còn lại cứ như đèn treo trước gió. Đến một lúc nào đó, người đời cảm thấy muốn “phủi bụi quá khứ” thì liệu có còn kịp nữa hay không (?!).

Chợt nhớ ! Tại số 33, Quảng trường Maubert, quận 5, Paris - nơi không cách xa mấy Nhà thờ Đức Bà – có một nhà hàng nhỏ nhắn với cái tên rất thuần Việt – Kim Liên. Nổi danh với món bún bò, gà nướng xiên đũa tre và cả vịt quay, vịt luộc chấm nước mắm. Lại thêm một điều khá lý thú khác – chủ quán chưa bao giờ cho thực khách biết nơi đây từng đón các sao gạo cội cỡ Catherine Deneuve, Daniel Auteril, Sandrine Bonnaire. Và trên tất cả, là những câu chuyện liên quan đến phim L’amant. Hoá ra, khi thực hiện bộ phim nổi tiếng này, để giúp Jean-Jacques Annaud “thấm đẫm” văn hoá Việt bà Marguerite Duras đã dẫn ông đến nơi này. Và cũng chính Annaud sau đó đã dẫn Brat Pitt đến nơi này để hiểu hơn về văn hoá Phương Đông trước khi đi Tây Tạng.

Lan man như thế, vì người viết chợt nghĩ đến một nơi mà Jean-Jacques Annaud từng đến và hơn thế – nơi này đã từng là phim trường của bộ phim lừng danh L’amant với những tên tuổi Jane March (cô gái trẻ người Pháp), Lương Gia Huy (anh chàng Hoa kiều) cùng bối cảnh làng quê Việt Nam năm 1929 vô cùng huyền bí, lãng mạn. Đó là ngôi nhà cổ 130 tuổi tại làng Bình Thuỷ, Cần Thơ với vị chủ nhân Dương Minh Hiển vốn là cháu nội ông Dương Chấn Kỷ – một địa chủ đã có công khai phá vùng quê Nam bộ những năm đầu thế kỷ 20. Quả là Jean-Jacques Annaud đã có con mắt tinh đời khi chọn ngôi nhà cổ này để làm phim trường khi lối kiến trức của nó chứa đựng nhiều bí ẩn của buổi giao thời giữa hai thế kỷ 19 – 20 và là chứng tích của sự giao lưu văn hoá Đông Tây. Hỏi về những ngày tháng đoàn làm phim của Jean-Jacques Annaud đến đây, ông Dương Minh Hiển đã thốt lên: “Thiệt là hết sức vĩ đại”. Nhiều chi tiết mà ông còn nhớ, tỷ như chuyện cơm nước cho đoàn làm phim, họ đã nhọc công tốn 4 chiếc xe đông lạnh chở thức ăn và nước suối từ... bên Pháp sang (!). Tính ra nội tiền nước suối đã đủ cho Việt Nam làm hẳn một bộ phim khá hoành tráng. Chi phí cho mỗi ngày nghe đâu lối 100 triệu đồng. Họ cũng mời hẳn nhà văn Sơn Nam đi theo để sắp xếp lại bàn thờ trong ngôi nhà cho phù hợp bối cảnh phim, hay để tư vấn một loại vải gấm để may màn. Nhưng vẫn chưa đáng nói bằng việc mời diễn viên đóng vai ông chủ Hoa kiều – cha của nhân vật mà Lương Gia Huy thủ diễn. Đoàn phim đã dò hỏi khắp khi Chợ Lớn để thuê cho bằng được một ông già Tàu nghiện á phiện thiệt thụ... (!). Hoặc để thực hiện bối cảnh một đêm mưa trắng trời trắng đất – đêm mà chàng trai Hoa Kiều (Lương Gia Huy) quỳ lạy cha mình xin lấy bằng được cô gái Pháp – họ đã căng vải trắng lên toàn bộ khu vườn rộng mất mẫu đất rồi dùng vòi rồng phun nước lên. Kết quả là khung cảnh thơ mộng não lòng mà khán giả đã nhìn thấy trên phim.

Nhưng hoá ra, L’amant vẫn chưa phải là bộ phim đầu tiên lấy ngôi nhà 130 tuổi này làm phim trường. Bộ phim đầu tiên là “Bão U Minh” vào năm 1985 của đạo diễn Lâm Mộc Khôn, quay phim Đường Tuấn Ba. Ông Dương Minh Hiển nhớ hồi đoàn làm phim về cả xóm cứ chạy lại coi mặt diễn viên rần rần. Thấy cảnh cậu Hai trong phim chạy xe Jeep, cảnh Việt Minh ám sát cậu Hai bằng súng ru lô dân tình lại xuýt xoa, chộn rộn y như thật. Và sau đó là một loạt phim khác khi đạo diễn Trần Phương chọn làm bối cảnh cho “Bẫy ngầm”, “Đội nữ biệt động mùa thu”, “Dòng sông hoa trắng”. Rồi hàng loạt các phim khác như: “Những nẻo đường phù sa”, “Công tử Bạc Liêu”, “Câu chuyện tình dòng kinh Phán”, “Vòng hoa Chôm pay”... hay loạt phim chuyển thể tác phẩm Hồ Biểu Chánh như “Nợ đời”, “Con nhà nghèo” hoặc “Chuyện cổ tích Việt Nam của Hãng phim Phương Nam.

Cái lý của họ khi chọn nơi đây vẫn là vì nó mang đậm dấu ấn văn hoá xưa. Riêng vị chủ nhân lại vô cùng ý nhị, lịch lãm khi tiếp đón. Ông không biết cách ra giá về thù lao khi chỉ biết tính theo tiền phòng khách sạn. Một ngày khoảng vài ba trăm ngàn gì đó cho... toàn bộ phim trường và cho cả trăm nỗi phiền toái khi hàng chục thậm chí hàng trăm người lạ sục sạo từng ngõ ngách ngôi nhà. Ngay cả bộ phim L’amant với chi phí 27 triệu USD cũng chỉ phải trả cho ông có 4 triệu đồng Việt Nam cho 10 ngày quay. Và cũng chỉ có ông mới đưa ra những nhận xét thật hóm hỉnh, xác đáng. Ông vẫn còn thấy buồn khi đoàn làm phim “Dòng sông hoa trắng” vẫn giữ phân đoạn phim cảnh hành quyết các cô gái biệt động Tây đô – từng cô gái bị treo trên từng chiếc đò đón từng phát súng – dẫu sau đó chuyển cảnh hoa sứ trôi trên sông nhưng đã không còn chất thơ. Hoặc với bộ phim “Chân trời nơi ấy” khi thấy nhân vật bá hộ mặc áo nâu, tay ngắn có túi kiểu miền Bắc, ông đã nói liền: “Mấy chú ơi, hổng phải mặc vậy. Hồi đó, ông nội tui mặc áo tơ tằm màu mỡ gà, nút bằng đồng đỏ lại đeo thêm sợi dây chuyền gắn đồng hồ quả quýt mới đúng bộ”. Mấy tay phục trang nhăn nhó: “Tiền đâu tụi con mua lụa Hà Đông ông già ơi”. Riêng cái cảnh, mấy chú nhóc đeo bao bố tuột từ trên xuống để lau cột nhà trong phim “Cây tre trăm đốt” thì ông già cười ngất: “Quỷ thần ơi, ai đâu mà làm kỳ cục vậy. Hồi đó, nhà tui mướn người trong ruộng ra lau bằng nùi giẻ với xơ dừa từng ly từng tý một đó chớ”. Hoá ra, chính vị chủ nhân này đã là một pho tư liệu sống về văn hoá Nam bộ xưa mà các đoàn làm phim ít khi quan tâm.

Dường như lần hồi máu làm phim đã ngấm vào Dương lão gia. Mới đây, ông đến tìm tôi và kể tôi nghe câu chuyện ông nội của mình vốn là một tay chơi đá gà có tiếng – đá gà vị nghệ thuật hẳn hoi. Dân Nam kỳ lục tỉnh hẳn còn nhớ tên tuổi của Tám Vịnh – người giàu nhất xứ Rạch Giá, bị mù mắt nhưng chỉ cần nghe tả hình dáng gà, nghe gà gáy, rờ cựa gà là có thể biết nó thắng thua thế nào. Và một cuộc đá gà với tiền độ đến 1 ngàn đồng bạc con cò lối những năm 1940 giữa Tám Vịnh và ông Dương Chấn Kỷ cùng một số địa chủ khác đã lập kỷ lục lúc bấy giờ. Dương lão gia chắc lưỡi bảo – giá như nó được lên phim (!).

Lại quay về bộ phim L’amant. Quá hài lòng về những bối cảnh tuyệt vời cho bộ phim, quá xúc động trước tấm thịnh tình vô vụ lợi của chủ nhân ngôi nhà, Jean-Jacques Annaud đã ướm hỏi món quà gì mà ông Dương Minh Hiển thích nhất. Thật hóm hỉnh, Dương lão gia đã liếc mắt về Jane March – Annaud cười phá lên mà rằng – “Ô là la, làm sao ông có thể đủ tiền để đảm bảo cuộc sống vương giả cho một cô đào”. Đùa vui một chút và Annaud đã lấy mảnh màn cửa bằng gấm nơi Jane March từng lướt qua để tặng cho Dương lão gia như để lưu một chút mùi hương của mỹ nhân (!). Và sau đó không lâu, khi bộ phim ra mắt Annaud đã tặng cho Dương lão gia một tấm áp phích bộ phim kèm theo những dòng thư rất nhiều tính từ. “Je suis ebloui par la splendeur spectaculaire de cette sublime demeure. J’espère pouvoir, grâce au cinéma, la faire connaitre autour de la Terre ! Mercci de votre accueil delicieux” – JJ. ANNAUD 27 Mars 1990.

Và cũng như chủ nhà hàng Kim Liên tại Paris, ông Dương Minh Hiển rất ít khi kể ai nghe những câu chuyện này, mặc dù chính Annaud thú nhận, ông ta đã choáng mắt trước sự tráng lệ, kỳ vĩ của ngôi nhà và Annaud muốn nhờ vào điện ảnh để khiến khắp hành tinh biết đến nơi đây. Lại nhớ, vào ngày 29.1.2001, khi đến đây hoạ sĩ Lê Bá Đảng đã cho biết: “Nhà vườn và chủ nhân rất quý. Tất cả có thể trở nên hiếm có nếu chen vào đây mỹ thuật, văn hoá mới. Sẽ là thật cũ và thật mới thì quý hoá vô cùng. Và tất nhiên chỉ có văn hoá mỹ thuật và lòng người mới vĩnh viễn sang trọng”. Ý định của hoạ sĩ Lê Bá Đảng là sẽ đầu tư tiền bạc để có một cuộc triển lãm, trưng bày phía sau ngôi nhà cổ – những vật dụng như mô hình bồ lúa, bụi lúa, cái cày, con trâu... mà người ta có thể vào ngồi trong đó để hưởng thú vui ẩm thực. Chủ nhân đã suy gẫm rất lâu và rồi... chối từ ý định đó. Dường như với ông, cái văn minh tân tiến sẽ mãi không chạm được đến cửa ngõ căn nhà này. Cũng như chủ nhân của nhà hàng Kim Liên vẫn không muốn kiếm tiền bằng cách lăng xê kỷ niệm, kỷ vật để rồi lũ lượt những dòng du khách kéo đến – phá vỡ đi một không gian rất thuần Việt. Ông Dương Minh Hiển nói rằng ông rất thích một câu nói của Napoleon: “Tôi không cần biết anh làm gì nhưng khi anh sanh ra nơi nào anh chết nơi đó là anh đã thành công rồi”. Ông Hiển đã đạt được hơn thế với ngôi nhà thấm đẫm chất văn hoá phong lưu đặc sệt xứ Nam bộ xưa.

(Theo Dấu xưa nam Bộ)

4 tháng 2, 2009

Đàn ông giữa sự nghiệp và gia đình

     Tại sao lại phải học nhau cách nói miệt thị những người đàn ông có trách nhiệm với gia đình và tôn vinh những ai biết "sống chết" vì sự nghiệp?
     Thất bại khi mất gia đình Thường người đời vẫn cho rằng đàn ông thất bại nếu để mất sự nghiệp. Nhưng tôi nghĩ mất sự nghiệp chỉ là kém may mắn. Để mất gia đình mới là sự thất bại của đấng mày râu. Với quan điểm kẻ để mất sự nghiệp là kẻ thất bại, giá trị của người đàn ông được đồng nhất với chức quyền, tiền bạc..., những thứ biểu hiện sự mạnh mẽ của giống đực. Nhưng tôi nghĩ, đàn ông hay con đực nếu có được nhiều sức mạnh thì chỉ là sự may mắn. May mắn theo ý nghĩa là có thì tốt, không có cũng chẳng sao.
     Đối với đàn ông, có sự nghiệp hay có gia đình hạnh phúc mới là thành công? Những người không tán đồng ý kiến này cho rằng, sự nghiệp thể hiện tài và trí của đàn ông. Chẳng sai. Nhưng không chỉ có sự nghiệp mới cần đến tài và trí. Việc giữ gìn, bảo vệ và phát triển hạnh phúc gia đình mình cũng đòi hỏi tài trí nhiều không kém. Tài và trí có hai mặt, cả xấu và tốt. Sự nghiệp có thể có được bằng tài-trí xấu hoặc tốt, còn hạnh phúc gia đình thì không thể có được bằng tài-trí xấu. Cái cốt yếu để tôi cho người đàn ông thất bại khi để mất gia đình là ở chỗ, gia đình là phần quan trọng trong tâm hồn, là một món quà mang tính bản năng mà Thượng đế đã ban cho con người. Bạn sinh ra từ gia đình, lớn lên trong gia đình, đến tuổi lại có gia đình riêng, có con cái và chúng nó sẽ tiếp tục vòng quay đó. Chỉ có điều, gia đình của mỗi người hạnh phúc hay không tùy thuộc vào khả năng xây dựng, bảo vệ và phát triển nó của các thành viên. Và đàn ông ơi, tại sao lại chối bỏ vai trò "ông chủ" gia đình của mình trong trường hợp này? Tại sao lại không nói về chuyện gia đình mình có hạnh phúc hay không mà lại nói quá nhiều về sự nghiệp? Tại sao lại phải học nhau cách nói miệt thị những người đàn ông có trách nhiệm với gia đình và tôn vinh những ai biết "sống chết" vì sự nghiệp? Kẻ để mất gia đình tức là để mất viên ngọc minh châu quý báu của tâm hồn mình. Còn sự nghiệp lại là thứ bên ngoài tâm hồn. Bạn sinh ra không nhất thiết phải có sự nghiệp nào cả.      Bạn vẫn đi làm và kiếm ăn bằng mọi cách. Bạn chẳng chết đói, gia đình bạn không thiếu thốn. Và thế là ổn. Sự nghiệp không đồng nghĩa với có công việc để làm. Không ai nói về sự nghiệp của ông đóng than, ông xích lô, viên chức bình thường hoặc ai đó có chút chức vụ cỏn con. Mà những người này chiếm số đông trong xã hội, chỉ một số ít mới có sự nghiệp. Nhiều người đàn ông đã bị "thổi" đến bờ cực đoan của cuộc sống là phải có sự nghiệp, phải là kẻ mạnh, là con đực đáng gờm nhất. Một con đực đáng gờm thì sẽ chiếm đoạt được nhiều tiền bạc, quyền lực, tài sản và thậm chí cả rất nhiều gái đẹp. Hưởng thụ cũng là một kiểu thỏa mãn dẫn người ta đến cảm giác hạnh phúc. Mà cảm giác hạnh phúc có được từ hưởng thụ tài sản, tiền bạc, quyền lực và đàn bà đẹp lại dễ dẫn người ta đến sự sa đọa về tâm hồn hơn là giúp tâm hồn kẻ đó trưởng thành. Tất nhiên có sự nghiệp thì không sai. Và cũng chẳng có gì sai nếu ai đó không có sự nghiệp. Đàn ông cũng cần nước mắt Thế thì, đàn ông biết làm việc gì nếu không vì sự nghiệp? Bạn đừng nhầm nhiều thế. Nếu bạn chuyển hướng sang gia đình của mình, bạn sẽ thấy cái "vía anh hùng" không dễ thành công đâu. Bạn đang dư sức lực, trí tuệ, thời gian? Hãy dồn cho gia đình. Bạn từ từ sẽ thấy, không dễ để có và giữ được một gia đình hạnh phúc, thế mà trước đây mình chẳng dành cho nó sự quan tâm cần thiết. Đàn ông muốn có một gia đình hạnh phúc, bền vững thì cần có sự tâm huyết, ý chí, sức lực, trí tuệ, thời gian. Và còn cần gì nữa? Cần cả nước mắt, lòng bao dung của một tâm hồn lớn, tâm hồn của người đàn ông trưởng thành về nhân cách. Cái đó không nhất thiết phải có trong sự nghiệp, nhưng sự bền vững của gia đình lại đòi hỏi bạn phải có. Học ở trường lớp ra, cạnh tranh nhau, dẫm đạp nhau trong công việc để giành lợi thế về quyền chức, sự nghiệp cũng không đòi hỏi bạn nhiều tố chất cá nhân đến thế! Nước mắt ư? Quá khó với những người đàn ông nông nổi hoặc bọn dũng tướng vô tâm. Và nếu gia đình bạn không dễ dàng có hạnh phúc, bạn sẽ khóc được bao nhiêu lần để giữ gìn nó, để nhẫn nại tìm giải pháp khác thay vì đơn giản và "yêng hùng" nổi giận và đạp tung nó? Với vợ con, bạn phải là người đàn ông vững vàng như bàn thạch để làm chỗ dựa. Xưa nay người ta cứ phấn đấu vì sự nghiệp. Hóa ra, theo sự nghiệp còn dễ hơn, còn sớm có cái để khoe khoang, tự mãn. Thảo nào mà đa phần bọn đàn ông thích mỉa mai những người chuyên chăm lo, gìn giữ gia đình. Khó quá, làm không được thì tìm cách hạ thấp giá trị xuống đó thôi, để đỡ thấy mình hèn thật!

(Theo Đẹp)